Ba vạn kỵ binh Mông Cổ bày trận trên đồng trống, khí thế ngợp trời. Thích Kế Quang trong lòng kêu khổ, lũ giặc Oa ngày thường chưa từng gặp cường địch kia sao có thể so sánh được.
Thế nhưng khi hắn quay đầu, lại thấy chúng tướng sĩ đã bày trận sẵn sàng đón địch, mấy trăm chiếc thiên sương xa, khinh xa, truy trùng xa cấu thành một xa thành kiên cố (*), trên xe chở Phật Lãng Cơ, hổ tôn pháo, đại tướng quân, cộng lại có hơn 300 khẩu. Ngoài xa thành là hỏa thương binh xếp thành hàng chỉnh tề, phía sau đứng đầy quan binh cầm trong tay các binh khí dài như lang tiễn, trường kích, đại bổng. Hậu phương cách đó không xa còn có bộ đội kỵ binh tinh nhuệ, nhiệm vụ của họ chỉ có một, tùy thời triển khai trận giáp lá cà với địch nhân tiếp cận, ngăn cản họ tiếp cận xa thành.
(*: thiên sương xa là loại xe bên trên có súng, cho mười người cùng sử dụng, dùng để phòng thủ; khinh xa là một loại xe nhẹ; truy trùng xa là xe chở lương)
Bộ hạ ta chuyên làm việc khó, xưa nay chưa từng bó tay chuyện gì, chúng ta cứ chờ xem, là mâu của ngươi sắc hay thuẫn của ta cứng.
Quân Mông Cổ bên kia thấy trận thế của quân Minh so với những gì chúng biết ngày trước hoàn toàn khác biệt, nhất thời cũng không rõ đã xảy ra chuyện gì, nhưng bọn chúng vững tin vào chân lý "Kỵ khắc bộ", tựa như tin vào chân lý mặt trời mọc ở đằng đông vậy. "Sợ cái gì, chẳng qua chỉ là trò hề, ta không tin ba vạn thiết kỵ của ta không làm gì được vài mống quân của ngươi", Tân Ái trong lòng thầm nghĩ, bên ngoài thì nghiến răng nghiến lợi quát "Xông lên!" tức thì ba vạn thiết kỵ tung vó rít gào xông về phía Thích gia quân.
Trong khi phát hiệu lệnh “Khai hỏa”, hồng sắc lệnh kỳ trong tay Thích Kế Quang vung lên, lập tức đạn lửa bắn liên thanh, âm vang chấn động. Đại pháo trên chiến xa nhằm vào kỵ binh phun lửa, từng viên đạn đỏ rực mang theo sự căm hờn kẻ xâm lược, gào thét tàn phá trong lòng lũ kỵ binh. Kỵ binh Mông Cổ nhất thời rối loạn, vô số ngựa bị đạn pháo bắn nổ, các mảnh vụn chân, đầu bay tung tóe khắp nơi, máu đỏ trộn với bùn đen, khiến người người kêu lên tuyệt vọng. Nếu không phải do ngựa Mông Cổ là loại tốt, gặp loạn không hoảng thì sợ rằng toàn quân còn bi thảm hơn.
Tuy vậy tốc độ của quân Mông Cổ cũng đã giảm bớt. Chỉ huy Hoàng Đài Cát ở hậu phương không mảy may để ý, ra lệnh cho bọn chúng biến sang trận Hào Giác. Nghe được mệnh lệnh, lũ kỵ binh Mông Cổ lập tức phân tán, tạo thành hình nan quạt hướng về phía quân Minh.
Nhìn những chỗ xung yếu quanh xa thành, quân Mông Cổ không thấy bất cứ sự khác thường gì, đột nhiên một tiếng nổ long trời lở đất, ở những nơi quân tiên phong đi qua, hỏa quang phát ra từ vụ nổ, kết hợp với hỏa quang phát ra từ lòng đất khiến cho bụng ngựa nổ tung, chân ngựa nát bấy, kỵ binh trên lưng ngựa cũng bị hất văng trên mặt đất, đám kỵ binh phía sau không kịp dừng vó, dẫm đạp điên cuồng lên lũ đồng bọn sắp chết.
Đầu Tân Ái muốn nổ tung, cứ như hắn đang gặp quỷ vậy, không hiểu sao loại chuyện quái đản lửa bốc ra từ lòng đất lại xảy ra thế này?
Trên đời nào có chuyện trùng hợp đến vậy, đây chính là một loại vũ khí bí mật do quân Minh nghiên cứu chế tạo ra, gọi là “Tự phạm cương luân hỏa” Cái tên nói lên tất cả, chỉ cần ngươi phạm phải lập tức sẽ nhận hậu quả. Quan binh còn gọi bằng một tên dễ hiểu hơn là “Địa lôi”, khi kỵ binh đạp phải địa lôi, hỏa quang phát ra thật rực rỡ, huyết sắc bay đỏ trời.
Mặc dù tổn thất nặng nề như vậy, nhưng tên đã rời cung sao có thể thu hồi, chỉ có thể cắn răng mà lao tới. Lúc này trên mặt đất đã thôi phun lửa, nhưng kỵ binh lại phát hiện thấy chông sắt cùng cự mã đáng (*) đã chắn trước lối đi. Trời ạ, sao mà lắm loại đến vậy? Bảo người ta phải đánh thế nào đây?
(* cự mã đáng: vật dùng để ngăn ngựa)
Còn chưa kịp cảm thán thì đã thấy quân Minh phía xa nhất tề giơ vũ khí lên, lại sắp có trò gì nữa à? Đám kỵ binh Mông Cổ mơ hồ nhận thức được quân Minh đang giương hỏa súng lên, nhưng hỏa súng này có hình dạng khác với những gì chúng biết trước đây… Thật ra hình dạng của điểu súng cũng đã gần giống hệt với súng trường mà Thẩm Mặc quen thuộc.
Phát súng đầu tiên đồng loạt nổ, tiếng kêu thảm thiết liền vang lên không ngừng, lại có một lượng ngựa lớn bị trúng đạn… Xạ nhân tiên xạ mã, do vậy quân Minh chỉ nhằm về phía chiến mã mà bắn. Nhưng nào chỉ có vậy, chỉ thấy dưới hiệu lệnh của chỉ huy trong doanh, nhóm xạ thủ thứ nhất liền lùi về phía sau nạp lại đạn, còn nhóm xạ thủ thứ hai đứng chờ từ trước cũng lập tức tiến lên, sau khi bắn xong lại quay về nạp đạn nhường vị trí cho nhóm xạ thủ thứ ba, rồi nhóm xạ thủ này bắn xong lại lui về nạp đạn… Lúc này nhóm thứ nhất đã nạp xong đạn, một lần nữa lại xông lên bắn giết. Đồng thời trong lúc đó, thương thủ trên chiến xa cũng không ngừng xạ kích, tiếng súng vang lên không dứt, hỏa lực liên miên dày đặc.
Trên chiến trường khói trắng mù mịt, không thể nhìn rõ đối phương, nhưng mấy nghìn khẩu pháo của quân Minh vẫn không ngừng nổ, có trúng hay không cũng không còn quan trọng nữa, dưới làn mưa tên bão đạn dày đặc, kỵ binh Mông Cổ rối như canh hẹ, thương vong thảm thiết vượt xa dự liệu của chúng… Trước đây bọn chúng không phải là chưa từng đụng phải hỏa khí của quân Minh, nhưng mỗi lần chỉ cần chịu đựng một lát, là có thể tiến lên chém giết thoải mái. Nhưng bây giờ, phía trước có cự mã đáng ngăn cản, phía sau thương pháo bắn ra dày đặc, khiến cho bọn chúng chịu thương vong nặng nề, mà không có cách nào lao lên giết quân Minh được.
Đây là sự khác biệt lớn nhất so với các lần đối kháng kỵ binh trước của Thích Kế Quang - dùng hỏa khí cùng chiến xa. Xe dùng hỏa khí làm vũ khí, hỏa khí dựa vào xe để ngăn ngựa, hai thứ kết hợp chặt chẽ với nhau, Thích Kế Quang dùng những chiến xa kiểu cũ đem cải tạo lại, trang bị thêm thật nhiều hỏa khí. Khi kỵ binh tấn công, xe được quây lại thành xa trận, điểu súng, hỏa tiễn, phật lãng cơ luân phiên bắn ra. Nếu địch nhân vẫn không lui, đại tướng quân trên xe cùng tất cả hỏa khí sẽ cùng bắn, uy lực so với từng loại luân phiên nhau bắn ra lớn hơn rất nhiều, không kỵ binh nào có thể chịu nổi.
Nhưng vì kỵ binh Mông Cổ quá đông, mặc cho mũi quân chính diện tấn công thất bại, nhưng bọn chúng vẫn từ hai cánh của quân Minh hỏa lực yếu kém mà chém giết tới, dùng dây thừng mở cự mã đáng, tới gần xa trận của quân Minh.
Lúc này quan binh phòng thủ hai bên xa doanh từ trong xa trận từng hàng đi ra, xếp thành Uyên Ương trận - thuẫn binh đi phía trước, lang tiễn binh yểm hộ phía sau, trường thương thủ, điểu súng thủ ở cuối, cùng địch nhân chém giết. Lại còn hỏa lực từ trong xa trận bắn ra dày đặc trợ giúp, mới miễn cưỡng ngăn được kỵ binh Mông Cổ liều mạng chém giết.
Lúc này, ba tên Đài Cát tuy biết tổn thất nặng nề, nhưng bọn chúng cũng biết nếu không thể đánh tới quân địch, thì quân tâm sĩ khí sẽ tiêu tan không thể cứu vãn được nữa, ba người giờ đành vứt bỏ tính toán của bản thân, tự mình đi lên tiền tuyến đôn đốc, tìm kiếm mắt xích yếu nhất của quân Minh, hòng cố gắng đột phá được xa trận chết tiệt này.
Quân Mông Cổ dù sao cũng là người đông thế mạnh, sau khi đánh đổi bằng thương vong nặng nề, cũng đã thoát qua được sự ngăn cản của cự mã đáng, gầm lên như dã thú lao tới. Quân Minh cũng ra sức liều mạng, nương theo khói bụi của đạn pháo, đội sát thủ lướt nhanh qua trước điểu súng thủ, nghênh tiếp kỵ binh địch đang lao tới, tạo thành Uyên Ương liên hoàn trận - đây chính là đội quân tinh nhuệ của Thiết gia quân, cùng với Thiết gia vào sinh ra tử, các binh sĩ bình thường của quân Minh không thể so sánh bằng, bọn họ võ công cao cường, chiến pháp cao siêu, quân kỷ nghiêm minh, mạnh mẽ đối mặt với tầng tầng lớp lớp thiết kỵ, oai hùng coi cái chết như không mà đối diện với kẻ địch.
Trận thế theo hiệu lệnh mà động, hiệu lệnh thứ nhất vang lên, toàn bộ quan binh hò reo tiến lên trước một bước, hiệu lệnh thứ hai vang lên, lại hò reo tiến thêm một bước, lúc này hai bên đã gần đến nỗi có thể chạm vào nhau được.
Sau khi hiệu lệnh thứ ba vang lên, toàn quân lại reo lớn, không còn giữ đội hình mà từng người tản ra lao vào từng tên địch, mặc kệ thương vong mà chém giết, đến khi ngươi chết ta sống mới thôi.
Trên chiến trường tiếng pháo ù ù, tiếng súng không ngớt, đao quanh kiếm ảnh, máu thịt tung bay, tiếng kêu gào thảm thiết, tiếng người rên đau đớn hòa lẫn thành một mảng, giống như đang trong địa ngục Tu La vậy.
Mặc dù cũng là Uyên Ương trận, nhưng đối phó với quân Mông Cổ khổ sở hơn đối phó với lũ giặc Oa rất nhiều, đối phương từ trên cao đánh xuống, lực đánh cả mười phần, căn bản không phải là thứ máu thịt có thể chống đỡ được, nhưng quân Minh liều mạng không sợ chết, vũ khí trong tay lại đều là vũ khí khắc chế kỵ binh, bọn họ dùng trường thương, lang tiễn, câu liên cùng binh khí dài mà đâm quân địch, dùng gậy lớn mà đánh vào ngựa. Hơn nữa vì hai bên cao thấp khác nhau, cho nên không hề ảnh hưởng tới đội súng thủ phía sau bắn trợ giúp, nếu không phải do trên chiến trường khói bụi mù mịt, ảnh hưởng đến độ chính xác của điểu súng thủ, thì sợ rằng người Mông Cổ sớm đã không chống đỡ được.
Người Mông Cổ tính tình như sói, bình thường thì giảo hoạt đa nghi, không dễ dàng mà tham gia chiến đấu, nhưng một khi đã lao vào chém giết, thì sẽ lộ bộ mặt hung ác, không chết không ngừng, mặc kệ thương vong tổn thất, máu chảy thành sông, nhưng vẫn lao lên từng đợt từng đợt, lao vào trận địa của quân Minh, tựa như thủy triều vỗ đá, cho dù đá kia có kiên cố thế nào, cũng không thể ngăn được thủy triều bào khoét.