Tuy Thẩm Mặc ra vẻ chuyện không liên quan đến mình, nhưng Vương Khải Minh biết càng là như thế, lại càng cho thấy đại nhân đang lo lắng. Vì vậy không cần hỏi han gì, hắn đã mang hết chuyện đã xảy ra ở lục khoa lang, tất tần tật nói cho Thẩm Mặc biết.
Chẳng qua Thạch Tinh chỉ là một tiểu quan thất phẩm, phu nhân của hắn lại càng không ai biết tới, vì sao vừa chết đi lại đột nhiên nổi tiếng, khiến cho người trong lục khoa muốn lập linh đường trong hoàng thành chứ? Đầu tiên là bởi vì tục lệ cho phép, từ thời Tống, thái độ đối với phụ nữ trinh tiết đã tăng thêm phần kính trọng, thủ tiết sau khi chồng chết đã trở thành nghĩa vụ và đạo đức cao cả của người phụ nữ, nếu phát huy đến cực điểm, chồng chết vợ chôn theo thì xưng là "Tuẫn phu" hoặc "Tiết liệt", còn tự sát mà chết thì xưng là "Mãnh liệt phụ".
Trong bộ sách [Liệt nữ chuyển] mà tất cả nữ nhân đều phải biết có nói: Cái đức của nữ nhân mặc dù ôn nhu, nhưng tất cả đều gắn liền với trinh liệt. Phụ nữ có địa vị rất thấp, nhưng nếu như có hành động "Liệt nữ tuẫn phu" thì địa vị trong xã hội của họ sẽ cực cao, làm gương cho sự hoàn mỹ của cương thường. Lập tức sẽ được thế nhân ngưỡng vọng, quan phủ ca ngợi, văn nhân mặc khách cũng ca tụng, thậm chí được coi như sự việc trọng đại mà viết vào huyện chí, phủ chí, thậm chí là quốc sử. Như Thạch phu nhân lần này, lão công còn chưa chết mà đã chết theo, quá đủ để lưu trong sử sách.
(huyện chí, phủ chí: ghi chép những việc quan trọng xảy ra trong huyện, phủ)
Đương nhiên còn có nguyên nhân chính trị bên trong, địa vị Ngôn quan đang như mặt trời giữa trưa, rất có khí thế của kẻ vô địch. Lần lượt trục xuất Cao Củng, Quách Phác, mặc cho hoàng đế muốn giữ lại thế nào, cuối cùng cũng phải chấp nhận. Ngôn quan cho rằng hoàng đế cùng tiên đế không giống nhau, mềm yếu dễ bắt nạt hơn rất nhiều. Cho nên tất cả mọi việc đều không kiêng kỵ, đều phải tranh đấu với hoàng thượng đến cùng.
Nhưng lần này hoàng đế lại dám đình trượng Ngôn quan, dẫn đến hồi ức của bọn họ lúc tiền triều, từ lúc khai quốc tới giờ Ngôn quan đã trải qua một thời kỳ vô cùng đen tối, ai cũng không muốn trải qua một lần nữa. Vì thế họ muốn ngăn chặn ngay nguy cơ lúc mới hình thành, cho dù không xảy ra chuyện này, bọn họ cũng sẽ không bỏ qua. Huống hồ ông trời lại phù hộ, làm xuất hiện sự việc như vậy, sự oán hận của Ngôn quan cuối cùng cũng tìm được lý do để phát tác.
Âu Dương Nhất Kính, Chiêm Ngưỡng Tí, Lăng Nho cùng các Ngôn quan khác, đều từ sau màn bước ra sân khấu, xúi giục các nha môn. Mà các quan viên hiện nay phần lớn đều đã trải qua thời kỳ Gia Tĩnh đen tối, gần đây nhất là Tết Nguyên Đán năm ngoái, Gia Tĩnh đã cho đánh hơn trăm Ngôn quan bên ngoài Tây Uyển. Sự tàn bạo hiển hiện trước mắt làm bọn họ không dám nghĩ lại, càng không muốn tình cảnh lúc trước lại xảy ra một lần nữa, cho nên gần như tất cả nha môn đều phái người đại diện đi, tới lục khoa lang tế điện.
Người tới phúng viếng nối dài không dứt. Dựa theo điếu nghi, mỗi vị quan viên tới viếng đều mang tới một vòng hoa, câu đối. Trong linh đường không để được thì để ngoài sân, trong viện bày không đủ thì bày tới đại môn, đến cuối cùng bên trong cực môn đều bày đầy vòng hoa, câu đối, liếc mắt nhìn thì chỉ thấy trắng toát một vùng, không lẫn một màu nào khác... Trong hoàng cung trọng địa không cho phép ồn ào náo động, cho nên tất cả đều tiến hành trong im lặng, nhưng sự im lặng này so với việc khóc lóc thì còn khiến người ta áp lực hơn, ép tới tận hoàng đế trong cung, tất cả đều không thở nổi.
Thái giám trong cung đã giận tới mức bốc hỏa lên đầu. Thuộc hạ Ngự Mã giám có một doanh trại nội thao trung quân, chi quân đội này tạm gọi là đội ngũ, bắt đầu từ thời Võ Tông, vì hoàng đế tính cách đặc biệt, ý nghĩ kỳ quái, tự mình chọn trong đám hoạn quan những tên giỏi bắn tên cưỡi ngựa, sớm tối thao luyện, gọi là "Thiên tử thân quân". Đương nhiên đội ngũ này do hoạn quan tạo thành thì cũng do hoạn quan chỉ huy, lại Võ Tông trực tiếp sai khiến, ăn chơi vui đùa, ngoài việc lãng phí lương thực, gây họa cho bách tính ra, lại còn không có sức chiến đấu. Cho nên sau khi Võ Tông băng hà, Dương Đình Hòa liền theo di chiếu mà giải tán đi, cho tới thời Gia Tĩnh cũng không khôi phục lại.
(nội thao trung quân: thái giám được lựa chọn để tập luyện)
Nhưng hiện nay lại là một hoàng đế dễ dãi, không chỉ riêng ngoại thần cảm thấy dễ dàng mà các nội giám cũng thấy thoải mái tay chân, cho nên bọn chúng xúi giục hoàng khôi phục lại nội thao trung quân năm nào... Nhưng đội quân này vừa mới thành lập đã bị Từ Giai phản đối kịch liệt, mặc dù mọi lần lão đều tỏ ra ba phải, chỉ có chuyện này thì thái độ vô cùng cứng rắn, cho rằng đó là dấu hiệu của hoạn quan chuyên quyền, vì thế kiên quyết chống lại. Thủ phụ (thừa tướng) có thái độ như vậy, các Ngôn quan đương nhiên hưởng ứng theo, tấu chương dâng lên như mưa mùa hạ, đến nỗi suýt nữa thì đè sập ti Lễ giám.
Mặc dù sau đó bọn thái giám vẫn thuyết phục được hoàng đế, nhưng kế hoạch lập ra đội quân ba nghìn người trước kia giờ rút lại chỉ còn năm trăm. Hơn nữa ngoại đình còn không cho một tí quân phí nào, mặc kệ nội đình tự lo liệu. Chính vì sự kiện này mà bọn thái giám cực kỳ căm hận Từ Giai và Ngôn quan. Về sau luôn tìm mọi cách triệt hạ ngoại đình.
(nội đình, ngoại đình: chỉ trong cung và ngoài cung)
Ngoại đình đương nhiên không chịu nằm chờ chết, Vì Ngôn quan là người dẫn đầu phản đối lũ hoạn quan, cho nên giữa Ngôn quan và hoạn quan xảy ra xung đột cực kỳ gay gắt. Vì thế mới có việc Thạch Tinh mượn chuyện của Binh bộ để buộc tội hoạn quan, hoạn quan lại vặn vẹo thánh ý, suýt nữa đánh chết Thạch Tinh... Trên thực tế, ngày Phùng Bảo tuyên chỉ trục xuất Thạch Tinh ra khỏi cung, bọn tiểu thái giám còn đuổi theo đánh hắn, các Ngôn quan vì bảo vệ Thạch Tinh cũng đã đánh với chúng một trận.
Vì vậy lần này Ngôn quan không chỉ đơn giản là bày linh đường trong Tử Cấm thành, mà chính là một lời tuyên chiến với bọn đầu sỏ trong nội đình, Thẩm Mặc biết tiếp theo chắc chắn sẽ có một hồi ác chiến, cho nên mới kiên quyết không dính vào.
-o0o-
Thế cục kinh thành vốn đã không yên bình, nay vì việc này mà càng thêm căng thẳng, quan viên vào lục khoa lang bái tế mỗi ngày một nhiều thêm.
Bọn thái giám sao lại chịu để người khác đè đầu cưỡi cổ. Vì thế nổi trận lôi đình muốn xông ra ngoài phá đàn tế của bọn họ. Nhưng Long Khánh lại chẳng có hành động gì, mỗi khi thái giám muốn nói đều gạt đi:
- Cứ để cho bọn họ bái tế, vài ngày nữa rồi cũng xong...
Quân vương dễ tính như vậy quả là trước nay chưa từng thấy, thật đúng với lời người xưa nói: người hiền lành thì bị bắt nạt, ngựa hiền lành thì bị người cưỡi.
Lẽ nào từ nay về sau phải chịu ngoại thần cưỡi đầu cưỡi cổ? Bọn thái giám không cam lòng, tất cả chạy tới ti Lễ giám, quấn lấy Mạnh Xung cùng Đằng Tường, cầu hai người họ đứng lên, đừng để cho ngoại đình đắc ý nữa.
- Lục khoa lang thật khinh người quá đáng.
Đằng Tường cắn răng, đằng đằng sát khí nói:
- Không cho bọn chúng nếm mùi, chúng ta sau này cũng không cần sống nữa.
- Ngươi thấy hoàng thượng có thật là không tức giận hay không?
Mạnh Xung ánh mắt lóe lên:
- Ta nghĩ không phải thế, chủ nhân của chúng ta cũng có nộ khí, chỉ là không muốn lộ ra mà thôi.
- Phải.
Đằng Tường gật đầu nói:
- Ta cũng đã nhìn ra.
- Làm nô tài như chúng ta không phải hữu dụng những lúc thế này sao?
Mạnh Xung nói:
- Chủ nhân muốn mà không tiện làm, chúng ta sẽ làm.
- Đúng.
Đằng Tường gật mạnh đầu nói:
- Nếu không làm sao nuốt trôi cục tức này.
- Nhưng làm thế nào?
Mạnh Xung lại hỏi:
- Trấn phủ ti hay là Đề hình ti?
(Trấn phủ ti: chuyên bắt bớ, dò xét. Đề hình ti: chuyên tra khảo, hành hình)
- Không cần.
Đằng Tường trầm giọng nói:
- Dùng nội thao trung quân.
- Hay.
Mạnh Xung gật đầu tán thành, dùng Trấn phủ ti, Đề hình ti đều phải có lệnh của ti Lễ giám, không như nội thao trung quân chỉ cần đại thái giám của Ngự Mã giám hạ lệnh là được. Nếu có truy cứu trách nhiệm thì cứ đẩy cho người khác là được.
Hai người sau khi bàn bạc xong, liền chia nhau ra hành động.