Chương 2: Trọng sinh Điều này có nghĩa là quan phủ không cần tốn quá nhiều tiền thuế ruộng cũng có thể an trí tốt số nạn dân này.
Khi số nạn dân này được an trí ổn thỏa, dù thuế nhân khẩu không tăng quá nhiều, nhưng việc khai hoang đất công sẽ giúp tăng đáng kể thu nhập cho huyện.
Tộc Tô với hơn 500 người cùng các gia đình thông gia, và những nạn dân khác, tổng cộng hơn 800 người, đã được đưa đến một vùng đất hoang. Vùng đất này nằm ở phía tây thành, cách cửa tây thành khoảng hai khắc (nửa tiếng) đi bộ là đến chân núi. Dưới chân núi là thôn Chu Gia. Qua thôn Chu Gia, đi sâu vào núi, vượt qua hai dãy núi nữa là đến mảnh đất hoang này.
Đây là một thung lũng (bồn địa) hẹp dài theo hướng bắc-nam, với phần giữa bằng phẳng. Bốn phía đều là núi, phần bằng phẳng ở giữa ước chừng hơn 1000 mẫu. Có một con sông nhỏ chảy qua. Lúc này, đất đai cỏ mọc um tùm, xen lẫn không ít lùm cây lớn nhỏ. Lối vào là một con dốc thoai thoải. Phía bên kia thung lũng là một ngọn núi lớn mà dân bản xứ gọi là Lĩnh Lợn Rừng.
Nghe đồn ngọn núi lớn đó có rất nhiều lợn rừng, thậm chí cả bầy sói. Không ít người tỏ ra e ngại, không muốn định cư ở đây. Tuy nhiên, họ cũng chẳng thể thay đổi được gì. Dù vậy, tộc trưởng họ Tô lại khá hài lòng với nơi này. Cái tên thôn do huyện lệnh đặt là Phúc Gia thôn.
Người dẫn họ đến đây là một chủ bộ cùng ba tiểu lại và năm nha dịch. Những tiểu lại này có nhiệm vụ phân chia đất ở và đất khai hoang, đồng thời phụ trách đăng ký sổ sách. Vùng đất từ hướng đông sang tây là một dốc lớn thoai thoải, được quy hoạch thành khu dân cư. Ở giữa, một con đường lớn rộng sáu thước (khoảng hai mét) được kẻ vạch rõ ràng. Hai bên đường được chia thành từng lô đất riêng cho mỗi gia đình. Kích thước mỗi lô đất nền nhà được phân chia tùy theo số lượng nhân khẩu, mỗi người được hai phân đất nền.
Lối vào thôn, nơi giao lộ, nằm ở khoảng một phần ba phía bắc của thung lũng. Phía nam dốc thoai thoải khá bằng phẳng, nên phần lớn người dân được an trí ở đây. Phía bắc lại không được bằng phẳng như vậy. Trừ con đường rộng sáu thước ở giữa có thể dựng nhà, đất đai không còn nhiều chỗ để xây dựng. Khắp nơi đều là đá vụn, gồ ghề lồi lõm. Càng đi về phía bắc, đất xây dựng càng ít đi, cho đến cuối cùng chỉ còn phần đất phía đông con đường là có thể dựng nhà.
Gia đình Tô Diệp và gia đình bên ngoại (gồm cả ông ngoại) do Tô Diệp và bà ngoại bị bệnh nên đã đi cuối cùng. Do vậy, hai nhà đã bị sắp xếp ở khu vực cực bắc. Những gia đình lân cận họ đều là người xa lạ.
Gia đình Tô Diệp có tổng cộng 7 người: cha là Tô Thế Vĩ, mẹ là Diệp Mai. Con cả Tô Cảnh Lâm 13 tuổi, con thứ hai Tô Hủy 11 tuổi, con thứ ba Tô Diệp 9 tuổi, con thứ tư Tô Quả 7 tuổi, và con út Tô Cảnh Phong 5 tuổi.
Thế hệ của cha Tô Diệp có ba anh em trai và một em gái. Tô Thế Vĩ là con thứ hai. Tất cả đều đã lập gia đình và ra riêng. Cha mẹ của Tô Thế Vĩ sống cùng người con cả là Tô Thế Xương, và họ đều ở phía nam thôn.
Cha Tô Diệp vốn là một thợ mộc bình thường. Ba năm trước, trong lúc đi làm thuê dỡ hàng, ông bị một khúc gỗ lớn đập trúng chân phải. Sau khi chữa trị, ông đi lại khập khiễng, không thể làm việc nặng, và còn mắc thêm bệnh phong thấp.
Mặc dù lúc đó chủ nhà đã chi trả tiền chữa bệnh và bồi thường một khoản, nhưng chi phí sinh hoạt của gia đình ngày càng eo hẹp. Riêng học phí một năm của Tô Cảnh Lâm đã tốn năm lượng bạc. Mỗi năm còn phải chu cấp hai lượng bạc dưỡng lão cho hai ông bà nội. Sau khi cha bị thương, chân cẳng bất tiện, công việc nhận được cũng ít đi rất nhiều. Thu hoạch ruộng đồng, dù có hai mùa một năm, nhưng sau khi trừ thuế thì chỉ vừa đủ ăn. Những chi phí lặt vặt khác như dầu, muối đều do mẹ Tô và Tô Hủy bán đồ thêu mà có.